Các món ngon và đặc sản ở Bắc Kạn (Cập nhật 2018) | Ăn gì ở Bắc Kạn

1598

Cùng Phượt – Đến với Bắc Kạn, du khách không những có cơ hội tham quan khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn được thưởng thức các loại đặc sản mang đậm bản sắc của đồng bào dân tộc nơi đây. Sẽ rất thú vị nếu sau một chặng đường dài tham quan các di tích, danh lam thắng cảnh, các điểm đến ý nghĩa, tìm hiểu về truyền thống lịch sử, văn hóa, được nghe giới thiệu về các món ăn, đồ uống đặc sản quê hương Bắc Kạn. Trong mỗi món ăn, đặc sản ấy còn ẩn chứa những nét văn hóa đặc trưng, phong tục tập quán, là tính cách, là hương vị, là thành quả của cả một quá trình lao động sản xuất sáng tạo và những tri thức dân gian quý báu được người dân Bắc Kạn gìn giữ, bảo tồn và duy trì từ bao đời nay.

bac-kan-co-dac-san-gi-ca-nuong-ba-be

Bạn có thể dễ dàng tìm thấy những xiên cá nướng, tôm nướng ở quanh hồ Ba Bể (Ảnh – haitac20111978)

Cá nướng Pắc Ngòi

Cá trong hồ Ba Bể có rất nhiều, thường được người dân đánh bắt thủ công, số lượng cá không nhiều nhưng chất lượng thì thật tuyệt vì thịt cá trắng, chắc và có vị ngọt. Người ta chọn lấy loại cá chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, loại cá này vừa giống như cá bống, vừa giống con cá nẹp ở xuôi để làm món cá nướng.

Để có được món cá nướng, người dân nơi đây đã phải trải qua một quá trình chế biến cá, dù không khó nhưng lại mất thời gian. Cá tươi sau khi được đánh bắt chọn những con đều nhau, mổ lấy ruột bỏ đi và rửa sạch, sau đó cho vào chõ đồ chín tới. Tiếp đến người ta dùng nẹp tre để tạo thành kẹp, mỗi kẹp chừng 8 – 10 con. Đem những kẹp cá phơi cho khô ngoài nắng. Phơi khoảng 3 – 4 nắng là được. Khi ăn, ta chỉ việc gỡ cá ra khỏi nẹp tre và dùng cồn để nướng (giống như nướng mực), hoặc để cả kẹp cá mang nướng trên bếp than (nướng bằng than cá sẽ ngon hơn). Không cần nướng quá kỹ vì cá đã đồ một lần rồi. Ta chỉ nướng sơ cho cá vừa chín tới. Nướng kỹ quá cá sẽ bị đắng và khô ăn sẽ kém ngon.

Lợn sữa quay

bac-kan-co-dac-san-gi-lon-quay

Hội thi lợn quay vùng cao (Ảnh – Hội những người yêu xứ Lạng)

Lợn sau khi chọc tiết thì dùng nước nấu lá ổi để cạo sạch lông, mổ moi và làm sạch trong bụng rồi nhồi vào trọng bụng lợn các nguyên liệu như quả mắc mật, tai hồi, thảo quả, quế chỉ … rồi đem quay trên than hồng. Khi quay thì thường xuyên lấy khăn nhúng nước lau chú lợn để phần da lợn ở ngoài không bị cháy, khi lợn gần chín thì dùng que xăm thủng lợn để nước và mỡ chảy ra.

Bỏ lợn ra khoảng 1 tiếng cho bớt nóng và để khi chặt thịt miếng thịt bày ra đĩa không bị nát. Đĩa thịt lợn quay vàng xộm thơm lừng ngon lành đến ứa nước miếng. Cắn miếng thịt quay có vị ngọt của thịt chín tới, vị thơm của lá mác mật, vị ngậy của thịt nướng, miếng thịt được tẩm ướp đậm đà, ăn một lần sẽ nhớ mãi.

Gà chạy bộ

bac-kan-co-dac-san-gi-ga-nuong

Gà nướng (Ảnh – Tulbach)

Một đặc sản của các vùng đồi núi, gà được nuôi bằng thóc và thả rông cho nên thịt gà chắc, ngọt và thơm, đặc biệt da giòn ăn rất ngon.

Xôi nếp nương

bac-kan-co-dac-san-gi-xoi-nep-nuong

Xôi nếp nương (Ảnh – Phạm Thị Út Hạnh)

Món ăn vô cùng phổ biến của người vùng cao, thường là món ăn kèm với các món thịt lợn, thịt gà nướng ở trên. Gạo được dùng để nấu thường là gạo nếp nương, khi nấu khá dậy mùi, hạt to và dẻo.

Mắm tép chua Ba Bể

bac-kan-co-dac-san-gi-mam-tep-chung-thit

Mắm tép chưng thịt (Ảnh – Đồ Ăn Vặt)

Tép tươi mang về trộn đều với 1 bát cơm, 1 thìa muối, 1 chút rượu. Tất cả sau đó được cho vào lọ, đậy kín và ủ trong khoảng 1 tháng là có thể ăn được.

Rau rừng Bắc Kạn

bac-kan-co-dac-san-gi-rau-rung-bac-kan

Rau dớn, một trong các loại rau rừng ngon ở Bắc Kạn (Ảnh – Binh An Dang)

Cũng như một số tỉnh vùng Đông Bắc khác, người dân vùng cao Bắc Kạn cũng có những loại rau rừng rất ngon cùng với sự chế biến khéo léo luôn mang lại hương vị khó quên cho khách du lịch. Nếu có dịp ghé những bản du lịch cộng đồng của người dân Bắc Kạn bạn có thể dễ dàng thưởng thức các loại rau này như: rau dớn, rau bồ khai, rau ngót rừng…

Rượu men lá Bằng Phúc

bac-kan-co-dac-san-gi-men-la-ruou-bang-phuc

Men dùng để nấu rượu Bằng Phúc (Ảnh – Đàm Ngọc Tuân)

Rượu men lá của người Bằng Phúc khi uống có hương vị rất hấp dẫn, ngọt mát, rất dịu, êm hơn bất kỳ loại rượu nào khác. Rượu dù uống say đến đâu thì vẫn cứ sảng khoái, nhẹ nhõm.

Để làm ra men rượu, phải lên rừng tìm đủ các loại lá cây, thông thường men rượu được làm từ khoảng 16 loại lá rừng, hầu hết đều là những loại lá thuốc có tác dụng bồi bổ cơ thể và tạo nên hương thơm. Hái lá rừng là công đoạn vất vả nhất, để hái đủ các loại lá thì những người phụ nữ phải mất tới 3 đến 4 ngày đi rừng. Trong các loại lá cây, thì cây Thau Hương (một loại lá tạo mùi thơm) là loại khó lấy nhất, bởi đây là loại lá leo trên những cây cao, cổ thụ, nên chỉ có đàn ông mới hái được. Những ngày giáp Tết, nhu cầu thị trường cao hơn, nên việc đi rừng hái lá về làm men cũng vất vả hơn.

Sau khi hái đủ các loại lá, đến công đoạn rửa sạch, băm nhỏ và phơi khô rồi sắc lấy nước để ngâm gạo. Công đoạn này đòi hỏi người nấu phải tự ước lượng lá cây mỗi loại sao cho vừa đủ. Muốn làm được men ngon phải chọn được gạo ngon, đem ngâm 1 ngày, sau đó vớt ra để ráo nước rồi mới nghiền thành bột. Bột này đem trộn đều với nước lá và nặn thành từng viên men.

Bắt đầu từ tháng 8 trở đi, khi hết mùa mưa, nước thượng nguồn trong vắt, ngọt lịm, người dân dẫn nước về, làm ra những mẻ rượu thơm đượm vị rừng, ngọt mát vị núi và trong vắt như nước đầu nguồn. Nấu rượu men lá rất công phu, đòi hỏi sự khéo léo và tốn nhiều công sức. Quá trình cất phải dùng củi đun đều lửa, không cho cháy to quá cũng không nhỏ quá để rượu ra từ từ. Rượu men lá trở nên quý cũng vì cách làm kỳ công như thế.

Miến dong Na Rì

Miến dong Na Rì có hương vị đặc biệt là nhờ sử dụng nguyên liệu sạch, được chế biến theo quy trình đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Để làm ra loại miến thơm ngon này, củ dong riềng được nghiền nát để lấy tinh bột, hòa tinh bột vào nước và lọc nhiều lần để loại bỏ sạn và tạp chất, giúp cho miến có màu trong. Sau đó người ta quấy 1 phần bột dong, trộn với bột sống rồi đem đi tráng thành bánh. Bánh được đem đi phơi rồi đưa vào máy để cán thành sợi miến. Do làm từ nguyên liệu nguyên chất nên miến dong không có màu trắng trong như các loại miến khác mà sợi miến hơi đục. Bù lại, khi nấu sẽ cho sợi miến dai, giòn, có hương thơm đặc trưng của củ dong, không bị bở, không có sạn. Đến nay, đặc sản miến dong Na Rì đã được xếp vào danh sách 10 món ăn ngon nhất của Bắc Kạn.

Khâu nhục

bac-kan-co-dac-san-gi-khau-nhuc

Khau Nhục là món ăn du nhập theo người Hoa vào Việt Nam (Ảnh – Biên Thùy Hoàng)

Không chỉ ở Bắc Kạn, đây là món ăn khá quen thuộc ở các tỉnh vùng Đông Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn. Thịt lợn phải là thịt ba chỉ ngon, luộc sơ qua, dùng tăm tre chọc bì thật kĩ, tẩm ướp gia vị rồi đem quay, vưa quay vừa quết mật ong cho vàng bì. khoai cũng phải rán vàng,mọi thứ được xếp vào bát, cứ một miếng khoai, một miếng thịt cho nhân được làm bằng thịt, nấm hương, mộc nhĩ…đã xào lên trên, hấp cách thuỷ khoảng 5 tiếng đồng hồ.

Pẻng phạ

Nhìn bề ngoài bánh không có gì nổi bật, những viên bánh tròn tròn chỉ nhỉnh hơn quả nhãn lồng đôi chút, lớp bột trắng bên ngoài dù có cố gắng làm duyên đến mấy cũng không phủ kín màu hơi nâu nâu của bánh nằm ẩn bên trong. Tuy mộc và thô như vậy, song không phải ngẫu nhiên mà người Tày chọn đó là một trong những món ăn truyền thống của dân tộc mình để dâng lên trời đất. Chỉ một chiếc bánh nhỏ xíu, song hội tụ nhiều nguyên liệu, hương vị đặc trưng của người dân nơi đây với vị cay nồng của rượu, vị ngọt của đường, vị chát rất thơm của nước chè mạn, vị béo bùi của bột nếp…

bac-kan-co-dac-san-gi-peng-pha-bac-kan

Pẻng Phạ, món Bánh Trời của người Tày ở Ba Bể (Ảnh – Thuoc Hua)

Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp. Gạo nếp ngon, nhặt sạch thóc, sạn đem xay khô thật mịn tay làm bột nếp. Bột được nhào với nước chè mạn pha đặc để lấy màu nâu và vị chát rồi thêm một chút rượu trắng cho dậy mùi. Sau khi nhào thật kỹ cho bột dẻo và mịn có thể vê thành những viên cỡ quả nhãn. Vì bột nếp rất dính tay lại dễ bị chảy xệ nếu nặn xong mà không chế biến ngay nên người ta vừa nặn bánh vừa chuẩn bị đun một chảo mỡ nóng bên cạnh. Khi mỡ nóng già thả bánh vào rán cho nổi mỡ, vàng ruộm thì vớt ra để cho ráo mỡ, bánh rán hết mới bắt tay vào áo bánh. Đường được đổ vào xoong, châm thêm chút nước cho đường dễ tan chảy rồi đun sôi, thử độ kết đông của đường bằng cách nhỏ vài giọt nước lã vào thấy đường lăn thành giọt không bị hòa tan thì bắt đầu thả bánh vào cho ngập đường. Bánh vớt ra lăn ngay vào bột áo. Bột áo cũng được làm từ gạo nếp rang vàng rồi xay nhỏ mịn giống như làm thính, song khi rang non tay hơn bột thính một chút để bột có màu hơi ngà chứ không vàng thẫm. Bánh pẻng phạ bên trong dẻo, do tác động nhiệt lớn bột bánh bên trong chưa kịp ngấu nhiệt lớp bên ngoài đã cứng giòn nên bánh giống như có nhân ăn rất thú vị.

Lạp xường Bắc Kạn

Làm lạp xường cũng rất cầu kỳ và công phu. Đầu tiên phải chọn lòng để làm lớp vỏ lạp xường. Lòng non để làm lạp xường phải chọn đoạn lòng đắng vì phần lòng này dai và khá dày, làm lạp xường mới được. Sau khi tuốt rửa sạch lại phải bóc, lột bỏ lớp vỏ ngoài của lòng đi, chỉ lấy lớp màng mỏng bên trong. Việc bóc lòng không khó, chỉ cần khéo léo và nhẹ tay một chút. Lòng bóc xong, thổi hơi vào cho phồng lên, buộc chặt hai đầu, đem hong chỗ thoáng gió. Khoảng một tiếng đồng hồ, bộ lòng se lại, mỏng và dai như ni lông. Thế là được phần vỏ lạp xường.

bac-kan-co-dac-san-gi-lap-xuong-bac-kan

Lạp xưởng Bắc Kạn (Ảnh – Nhà hàng Nguyễn Văn Khoa)

Để làm nhân lạp xường người ta chọn loại thịt nửa nạc nửa mỡ. Bởi nạc nhiều, lạp xường sẽ khô, sác; mỡ nhiều, lạp xường sẽ nhão, ăn mau ngấy nên loại thịt thích hợp nhất để làm lạp xường là thịt vai. Thịt được lạng bỏ lớp bì, thái miếng vừa phải, ướp muối, đường, bột ngọt. Và không thể thiếu một ít rượu trắng, một ít nước gừng và một ít quả mắc mật khô xay nhỏ ướp cùng. Theo kinh nghiệm của đồng bào nơi đây thì ướp thịt với rượu trắng và nước gừng như vậy khiến cho lạp xường sẽ có mùi thơm rất đặc trưng, để được lâu mà không bị hỏng.

Công việc phức tạp nhất là nhồi lạp xường. Với một chiếc phễu và một chiếc đũa, từ từ dồn thịt vào cho đầy phần lòng non đã chuẩn bị. Để dễ làm, cứ nhồi được chừng hai ba mươi phân thì buộc lại thành khúc. Thỉnh thoảng lại lấy kim châm vài chỗ cho khí thoát ra để lạp xường khỏi nứt. Nhồi xong thì đem lạp xường đi phơi nắng cho khô dần. Hoặc đem hong trên gác bếp. Hơi ấm của bếp lửa sẽ làm lạp xường se lại, săn chắc. Lạp xường được nắng, được hơi lửa, cứ ánh lên màu đỏ hồng của thịt nạc xen những đường vân trắng ngà của thịt mỡ trông thật hấp dẫn. Ngày 27, 28 làm lạp xường thì khoảng mồng 2, mồng 3 tết là ăn được.

Lạp xường khi đã khô thì để nguyên cả khúc đem chiên cho chín sau đó mới thái lát, khi ăn chấm với mắm gừng. Hoặc thái lạp xường thành các khoanh dầy vừa phải, chờ cho mỡ trong chảo thật nóng già thì cho lạp xường vào, đảo lên, rưới thêm ít nước mắm, rắc thêm chút hành tươi. Đĩa lạp xường thơm phức, mới trông đã thấy thèm. Cho nên ngày tết, dù có bao món ngon, lạp xường vẫn là món được mọi người đụng đũa nhiều hơn cả.

Lạp xường được làm bằng bàn tay của người Bắc Kạn có mùi của nắng vùng cao, mùi của khói bếp, thoảng mùi gừng, mùi rượu, mùi mắc mật thơm một cách đặc biệt. Vị dai của lòng, vị ngọt của thịt nạc, vị béo của mỡ hòa quyện với nhau, ăn thật ngon miệng. Nhấp thêm chút rượu nữa thì càng thêm khoái khẩu.

Bánh ngải người Tày

Có một loại bánh mà chỉ người Tày mới có đó là bánh ngải. Bánh ngải có màu xanh đặc trưng của thiên nhiên, hình thù và cách làm gần giống với bánh dày của người miền xuôi. Làm bánh ngải không khó nhưng lại đòi hỏi sự công phu và khéo léo từ khâu chọn gạo, đường, rau ngải cho đến khâu ra bánh.

Bánh ngải kén gạo vì thế không phải loại gạo bất kỳ nào cũng làm được bánh. Muốn bánh thơm, dẻo phải chọn loại nếp nương và không được lẫn dù chỉ một hạt gạo tẻ. Đường để làm nhân bánh cũng phải lựa chọn rất cẩn thận, phải chọn đường phên (một loại đường thẻ, miếng to chừng bàn tay) có màu vàng, ngọt và không có sạn.

bac-kan-co-dac-san-gi-banh-ngai-bac-kan

Bánh ngải là món bánh đặc trưng của người Tày (Ảnh – Nguyễn Thị Thùy Dương)

Lá ngải được rửa sạch, đun trong nước tro bếp từ 2 đến 3 giờ. Để có nước tro tốt, người ta chọn tro sạch, tốt nhất là tro tre nứa, hoặc tro vỏ đậu xanh. Tro sạch được lèn vào rá tre, để rá trên chậu tạo khoảng cách cho nước từ rá chảy xuống. Người ta đổ nước từ từ vào tro cho ngấm dần rồi chảy xuống chậu. Nước tro lúc đầu đặc có màu cà phê, sau loãng dần. Lá ngải đun trong nước tro rất chóng nhừ. Sau khi đun nhừ, đổ lá ngải ra rá, rửa nhiều lần cho sạch nước tro, nhặt bỏ sơ (gân lá, cuống lá già), vắt kiệt nước rồi nắm thành từng nắm bằng nắm tay.

Gạo làm bánh được ngâm từ tối hôm trước rồi đem đồ chín thành xôi vừa độ dẻo. Trong quá trình đồ, khi lên hơi, người ta thường tưới thêm lần nước để khi giã bánh sẽ dẻo hơn. Trong quá trình chờ xôi chín sẽ chuẩn bị nhân bánh, người ta đun đường phên lên thành mật sau đó trộn mật với vừng đen rang chín giã nhỏ. Nhân bánh chính là bí quyết tạo ra hương vị thơm ngon cho chiếc bánh.

Xôi đồ chín phải giã ngay lúc còn nóng cùng với những nắm lá ngải để bánh mềm, mịn và dẻo. Sau khi xôi được giã nhuyễn, các bà, các mẹ sẽ nhanh tay múc ra mâm để nặn bánh. Bánh được nặn thành hình tròn sau đó ấn dẹt ra, cho thìa nhân vào giữa, rồi gói vỏ bánh lại bọc kín lớp nhân bên trong thành hình như chiếc bánh dày là được. Cố gắng khéo léo để nhân không bị trào ra ngoài vỏ bánh. Mỗi chiếc bánh nóng hổi được đặt trên một khoanh lá chuối tròn nhỏ bằng chiếc bánh để chúng không dính vào nhau. Sau đó gói chung khoảng 10 cái bánh nhỏ vào một lớp lá chuối để giữ bánh được lâu hơn.

Bánh ngải là thứ bánh rất dễ ăn, mát và không ngấy, nếu ai đã từng ăn một lần sẽ không quên mùi vị của loại bánh dân dã này. Vị hăng hăng, thơm thơm là lạ của lá ngải như dung hòa cái dẻo, cái ngọt của nếp, của đường, miếng bánh có sự tươi non của đồi nương, cái hoang dã của lá rừng như gói cả mùa xuân trong mát.

Bánh trứng kiến

Bánh trứng kiến (tiếng Tày gọi là “pẻng rày”), nguyên liệu gồm: Trứng kiến, bột gạo, lá non của cây vả. Làm bánh trứng kiến việc vất vả nhất là đi lấy trứng kiến về để làm nhân bánh. Trước hôm làm bánh người ta vào rừng tìm trứng kiến. Loại kiến đen có thân nhỏ, đuôi nhọn, đi lại khá nhanh và thường làm tổ trên cây vầu. Tổ của chúng màu đen, hình tròn hoặc hình bầu dục được làm từ lá cây mục và kết chặt vào những cành cây. Kiến này cho trứng lành, cắn không đau và không độc như các loài kiến khác. Dùng dao chặt cành cây có tổ kiến đặt vào chậu hay rá rổ đan dày. Phá tổ, kiến bố mẹ sẽ nhanh chóng bỏ đi, để lại trứng. Dùng tay vỗ tổ kiến cho trứng kiến rụng ra. Tổ kiến to có thể bằng cái mũ. Để kiến bỏ đi nhanh và không tha theo trứng người Tày thường cho thêm mấy cành cây nhỏ vào chậu. Trứng kiến thực chất là ấu trùng kiến, chính vì vậy mà tỷ lệ đạm rất cao, nhiều chất bổ, tuy nhiên một số người ăn có thể bị dị ứng. Một người vỗ trứng kiến một buổi có thể được một vài cân.

bac-kan-co-dac-san-gi-banh-trung-kien

Bánh trứng kiến Bắc Kạn (Ảnh – Lan Hiếu)

Vỏ bánh thì đơn giản hơn rất nhiều, gạo nếp được xay cho nhuyễn và cô thành bột dẻo, những người có kinh nghiệm khi làm bánh trứng kiến thường pha một tỷ lệ nhất định bột gạo tẻ vào chung với bột nếp, chất lượng bánh sẽ ngon hơn. Bên ngoài bọc những chiếc lá vả xanh non để làm áo cho những chiếc bánh.
Để làm nhân bánh người ta phi thơm hành rồi cho trứng kiến vào rang cho thơm phức và béo ngậy, việc này cũng phải hết sức khéo léo vì nếu quá lửa trứng sẽ cháy nát hết. Sau khi nhân bánh được chuẩn bị xong người ta sẽ tiến hành làm bánh. Bột gạo được dát mỏng vừa phải, dày cỡ nửa phân rồi áp vào lá vả non.

Tiếp đến là cho trứng kiến đã xào rải đều trên mặt miếng bột, sau đó gói miếng bột vào để bọc lấy nhân bánh, để bánh được đẹp hơn người ta cố gắng thật khéo tay để bánh được vuông vức. Cuối cùng là bọc bên ngoài một lớp lá vả bánh tẻ rồi cho vào nồi đồ như đồ xôi độ 30 phút là chín. Theo bà con người Tày đối với bánh trứng kiến không thể thay lá vả bằng loại lá khác. Khi ăn cũng đừng tìm cách bóc tách lớp lá vả non bên trong đi bởi phải ăn cả lớp lá này thì bánh mới bùi và ngon hơn rất nhiều, mà có muốn bóc cũng rất khó bởi lá vả non sau khi được hấp chín đã dính chặt vào bánh.

Măng vầu

Rừng Bắc Kạn có rất nhiều loại măng như: Măng tre, măng trúc, măng nứa, măng mai,… Nhưng nếu nói là đặc sản phải kể đến thứ “măng vầu” hay còn gọi là “măng đắng”.

bac-kan-co-dac-san-gi-mang-vau-bac-kan

Măng vầu có thể được chế biến thành rất nhiều món ngon (Ảnh – Ngọc’s Bích)

Ở Bắc Kạn, người ta có thể chế biến măng thành rất nhiều món hấp dẫn. Măng củ (loại măng vầu được đào lên từ trong lòng đất) vốn đặc ruột thì để hầm xương hoặc lạng thành từng lát mỏng và dài để cuốn thịt. Còn với loại măng cái (măng vầu đã lên tai xanh) vì có vị đắng nên muốn ăn được thì phải luộc kĩ với muối sau đó ngâm nước lạnh, phần thân măng thái mỏng xào tỏi, phần áo măng để cuốn thịt răm hấp chín.

Nhưng ngon hơn cả vẫn là món măng luộc chấm mắm tôm chanh ớt. Có thể luộc cả măng củ và măng cái. Người không ăn được đắng có thể ăn loại măng củ luộc, chất non ngọt của củ măng tạo cho món ăn một hương vị dìu dịu, mát ruột và rất dễ ăn. Những người sành ăn măng thì hay chọn ăn loại măng luộc thật đắng. Vì như vậy mới cảm nhận hết được sự thú vị của món ăn này, cái cảm giác đắng, chát cứ mất dần sau mỗi miếng nhai nhẩn nha thay vào đó là cảm giác thoang thoảng ngọt, nhẹ nhẹ cay, rất lạ.

Măng ớt Bắc Kạn

bac-kan-co-dac-san-gi-mang-ot-bac-kan

Nếu đi du lịch Cao Bằng, trên đường về các bạn có thể mua được măng ớt Bắc Kạn ở Đèo Giàng (Ảnh – Kim Ngọc)

Măng thái nhỏ, ớt và mắc mật để cả quả, rửa sạch để ráo. Tất cả được ngâm chung với nước muối có độ đậm vừa. Màu trắng của măng xen lẫn với màu đỏ tươi của ớt và màu xanh nâu của mắc mật thơm nồng là món quà thắm đượm hương vị quê nhà mà người dân Bắc Kạn dành làm quà cho người thân và du khách đến thăm quê mình. Măng ngâm ớt thường được dùng cho vào nước chấm và hay ăn kèm với những món ăn chóng ngấy như chân giò hầm, khau nhục…

Gạo bao thai Chợ Đồn

bac-kan-co-dac-san-gi-gao-bao-thai-cho-don

Gạo bao thai Chợ Đồn (Ảnh – Quỳnh Anh)

Xôi Đăm Đeng

Xôi Đăm Đeng là món ăn đặc sắc của người dân miền núi phía Bắc từ bao đời nay. Xôi Đăm Đeng thường có trong những phiên chợ, ngày cưới hay dịp lễ, tết của người dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt là vào dịp tết thanh minh (3/3 âm lịch).

bac-kan-co-dac-san-gi-xoi-dam-deng

Xôi Đăm Đeng (Ảnh – Ngọc Kim)

Món xôi này rất độc đáo vì được nấu từ gạo nếp nương và tất cả màu sắc của xôi không tạo ra bằng phẩm màu mà bằng hương sắc của cây cỏ. Người ta lấy lá của cây cẩm và vài loại lá khác đun lên, chắt nước ra, ngâm gạo nếp vào khoảng vài giờ rồi mang đồ trên chõ gỗ. Nước ngâm gạo phải nóng già thì khi chín xôi mới có độ dẻo. Xôi Đăm Đeng có một mùi thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và thơm. Xôi Đăm Đeng thường được ăn với muối vừng hoặc ruốc tùy theo khẩu vị từng người. Người dân Bắc Kạn quan niệm rằng ăn xôi này sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành.

Bánh Coóc Mò

bac-kan-co-dac-san-gi-banh-cooc-mo

Bánh coóc mò – bánh gio sừng bò (Ảnh – Thúy Phương Nông)

Coóc mò cũng là một loại bánh được bà con các dân tộc Bắc Kạn hay làm hơn cả. Mới nhìn qua nhiều người nhầm là bánh gio vì hình thức bánh coóc mò cũng giống như vậy . Bánh cũng được gói theo hình chóp nhưng lá gói bánh lại là lá chuối.

Bánh coóc mò ăn có vị đậm và thơm bởi được làm từ gạo nếp nương và lạc nhân đỏ . Ăn không ngán vì dễ ăn và mùi vị hợp với nhiều người, bánh coóc mò rất hợp với những bữa điểm tâm buổi sáng. Bóc chiếc bánh xanh rền, ăn dẻo, thơm bạn mới thấy hết ý nghĩa của món bánh này. Nếu ghé Bắc Kạn bạn đừng quên thưởng thức món ăn giản dị mà hấp dẫn này nhé.

Mứt mận

bac-kan-co-dac-san-gi-mut-man

Mứt mận (Ảnh – Hòe Nghiêm)

Món mứt mận ở Bắc Kạn được người dân coi là đặc sản vì nó có những hương vị đặc trưng riêng và rất hấp dẫn. Hầu như người dân Bắc Kạn đi đâu xa đều mang món mứt mận để làm quà biếu và giới thiệu sản phẩm của quê hương mình.

Chế biến mứt mận rất cầu kỳ, trước tiên phải chọn loại mận chát và đắng, rồi sau đó phải khía từng quả mận để khi nấu mận ngấm đường. Khi đã khía mận thật mỏng ngâm xuống chậu nước lã, những cánh mận được khía nở ra như một bông hoa rừng thật đẹp. Muốn mận vừa dai vừa mềm và không bị chát thì cứ 5 kg mận ngâm 1 lạng vôi và nước lã trong 3 ngày. Cuối cùng cho mận vào nồi nấu với đường, nếu 1 kg mận thì phải cần 3 kg đường phên cát xanh. Nấu mứt mận cũng rất lâu 5 tiếng đồng hồ mới xong một mẻ mận. Sau đó đem đi phơi ngoài nắng tầm 4 nắng là đóng mận cất vào túi

Quýt Quang Thuận

bac-kan-co-dac-san-gi-quyt-quang-thuan

Ảnh – FB Quýt Quang Thuận

Quýt Quang Thuận là một đặc sản của tỉnh miền núi Bắc Kạn, tuy chưa phải là thứ quả nổi tiếng được nhiều người biết đến như bưởi Năm Roi, nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Lục Ngạn…. nhưng nó lại mang hương vị đặc trưng riêng của núi rừng Đông Bắc.

Quýt có mùi thơm đặc trưng, ngọt, mát và pha lẫn vị hơi chua. Nếm quýt Quang Thuận bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt đậm của núi rừng, sự mát thanh của suối nguồn tinh khiết, hương thơm nồng nàn của khí trời mùa xuân và cả vị mặn mòi của mồ hôi người trồng quýt.

Tôm cá chua

bac-kan-co-dac-san-gi-tom-chua

Tôm chua (Ảnh – justicechicken)

Những khúc cá to và tôm được trộn mẻ, bột thính, giềng và các gia vị đặc biệt khác rồi bịt kín lại đem ủ, sau một thời gian người dân lấy ra nấu ăn. Tôm cá lúc này ăn rất thơm, mềm có vị chua ngọt riêng. Điều đặc biệt do ủ lâu, ngay cả xương cá cũng rất mềm nên khi nấu ăn người ta có thể ăn cả xương và thịt không phải bỏ thứ gì. Ngày nay, nghề làm tôm chua, cá chua đang có xu hướng phát triển ở vùng hồ Ba Bể. Dọc theo các triền sông, suối người dân lấy tôm, cá về chế biến. Phải là tôm sông, cá sông mới cho hương vị đậm đà, riêng biệt với các vùng quê khác. Khi đánh bắt được các mẻ tôm sông, cá sông, người dân lựa chọn những con còn nguyên vẹn, đều nhau, cá thì cắt khúc rồi làm theo quy trình trên và ủ kín. Sau một thời gian, khi tôm cá đã ngấm đủ gia vị, lên men, bỏ tôm chua, cá chua từ hũ ra, chắc hẳn không ai quên được hương vị đậm đà, mùi thơm của giềng, ngọt mềm chua dìu dịu, ăn cùng với cơm nấu bằng gạo nương thì người khó tính nhất cũng phải gật gù và thốt lên ăn không biết chán. Thường thì, người ta chưng tôm chua, cá chua lên với thịt băm và trộn thêm giềng giã nhỏ chưng lên nhưng nên nhớ rằng nếu cho nhiều thịt băm và giềng sẽ mất đi hương vị riêng của tôm chua, cá chua vùng hồ Ba Bể.

Bánh Khẩu Thuy

Vào mỗi dịp lễ hội Lồng Tồng, thứ bánh không thể thiếu để dâng lên trời đất, để cúng thần linh cầu mùa màng bội thu, mưa thuận gió hoà là bánh Khẩu Thuy. Bánh tròn như quả trứng chim cút, vàng óng vì được tẩm mật mía, ăn vừa ngọt, vừa thơm, giòn tan nơi đầu lưỡi với hương vị mang bản sắc riêng của người Tày.

Để làm được bánh ngon phải cần nhiều nguyên liệu, nhiều công đoạn và khá cầu kỳ. Họ lấy bèo tây đun lên lấy nước, lại lấy cây vông hoa đỏ đốt lên lấy tro. Dùng nước bèo tây và nước tro để ngâm gạo nếp. Ngâm cho gạo nở to rồi đem lên đồ. Một thứ không thể thiếu được khi làm Khẩu Thuy là khoai sọ. Khoai sọ cũng đồ lên cùng với gạo nếp, cho thêm một chút rượu vào. Bèo tây, tro vông để làm bánh nở được to, khoai sọ để bánh lên màu, rượu để bánh có vị thơm.

Sau khi đồ chín, cho tất cả vào giã. Giã Khẩu Thuy cũng như giã bánh dày. Giã đến khi cối bánh lên bọt trắng, giơ chày quá đầu người không thấy bột bánh dính đầu chày nữa thì mới được. Để giã được một cối bánh không phải đơn giản. Vậy nên, các cụ ngày xưa muốn thử sức con rể thì việc đầu tiên là cho giã một cối bánh dày. Giã càng nhanh, càng nhuyễn thì càng “đạt yêu cầu”. Giã bánh xong, đổ ra một cái mẹt to và cán cho thật mỏng. Chờ cho bánh nguội bớt, siu mặt thì đem cắt từng miếng hình quả trám hoặc hình vuông. Đem phơi khô tất cả để chờ đến tết hoặc ngày hội mới đem rang phồng lên. Rang Khẩu Thuy cho phồng hết cỡ để khi ăn không bị lợn cợn.

Công đoạn cuối cùng để hoàn thành món bánh này là tẩm đường cho bánh. Đun sôi mật mía, trút bánh đã rán phồng vào đảo đều, sau đó, đổ ra mẹt đã tra sẵn một chút bột gạo rang. Để giữ được lâu, người ta cho vào túi nilông buộc kín sẽ khiến bánh không bị ỉu mà vẫn giữ được hương vị.

Chè san tuyết Bằng Phúc

bac-kan-co-dac-san-gi-che-bang-phuc

Ảnh – Bằng Phúc Trà

Nằm ở độ cao 1.200m so với mực nước biển, xã Bằng Phúc, huyện Chợ Đồn khí hậu quanh năm mát mẻ là điệu kiện thuận lợi để giống chè shan tuyết ở đây phát triển. Bằng Phúc hiện còn trên 1.000 gốc chè cổ thụ trên 100 năm tuổi đang cho thu hoạch, trong đó có cây hơn 300 năm tuổi, cao hàng chục mét, tán rộng che kín vài chục mét vuông. Khác với các giống chè khác, búp chè shan tuyết to có phủ một lớp lông tơ trắng trông như những bông hoa tuyết. Khi sao khô búp chè có màu trắng bạc, pha nước sóng sánh vàng.

Quy định chung

  • Vui lòng chỉ để lại bình luận trên website bằng tài khoản Facebook cá nhân.
  • Đọc kỹ thông tin trong bài trước khi đặt câu hỏi, Cùng Phượt chỉ trả lời những nội dung chưa có trong bài.
  • Không quảng cáo, rao vặt trong bình luận khi chưa được sự cho phép từ Cùng Phượt.
  • Nghiêm cấm spam dưới mọi hình thức, tất cả các nick cố tình spam sẽ bị cấm bình luận, nội dung spam sẽ bị ẩn khỏi website.

KINH NGHIỆM ĐI PHƯỢT | KINH NGHIỆM DU LỊCH BỤI